Cuối thập kỷ 30 đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, các nước phe trục (Đức, Ý, Nhật) theo chủ nghĩa phát xít khởi chiến xâm lược các quốc gia khác và chống lại phe đồng minh (gồm Anh, Pháp, Liên Xô và sau đó là Mỹ và nhiều nước khác), tháng 9-1940 phát xít Đức chiếm nước Pháp và chính phủ bù nhìn của Pháp thỏa thuận đồng ý cho phát xít Nhật chiếm đóng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được sáng lập và lãnh đạo bởi lãnh tụ Hồ Chí Minh đã liên tục tập hợp các lực lượng yêu nước đứng lên chống Pháp giành độc lập, tháng 5-1941 dưới sự lãnh đạo của Đảng các lực lượng yêu nước tập hợp thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), tổ chức Việt Minh phát triển lan rộng và lớn mạnh ra cả nước, ngày 22-12-1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (lực lượng tiền thân của quân đội Việt Nam được thành lập), ngày 12-3-1945 Nhật hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương, lực lượng của Pháp tan rã, đối tượng của cách mạng còn lại là phát xít Nhật, ngày 12-3-1945, Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” là một văn kiện lịch sử có ý nghĩa chỉ đạo hành động, chuẩn bị mọi lực lượng để đón thời cơ khởi nghĩa một cách chủ động đã được Đảng ta sớm đề ra, phù hợp với tình hình lúc đó.
Bác Hồ và Trung ương Đảng đã tận dụng triệt để những thuận lợi cơ bản: Phát xít Nhật hoang mang; Chính phủ Trần Trọng Kim yếu thế; quân Đồng minh chưa vào nước ta; quân Pháp có tham vọng quay trở lại Việt Nam, nhưng chúng chưa có lực lượng. Ngày 14-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ngay trong đêm 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1. Bác Hồ đã khẳng định: Lúc này, thời cơ thắng lợi đã tới, dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Người cũng khẳng định:“Chúng ta không thể chậm trễ”. Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội sau đó lan rộng và thắng lợi trên toàn quốc chỉ trong vòng 15 ngày.
Bài học lịch sử về thời cơ
Thời cơ là tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất cho việc chủ động phát huy mọi sức mạnh để giành thắng lợi. Khi thời cơ đến, phải nhạy bén nắm bắt và phải kịp thời chớp lấy. Thời cơ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn - từ sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước lúc quân Đồng minh tiến vào nước ta giải giáp quân Nhật. Nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật chưa đầu hàng thì sẽ khó khăn, vì chúng tuy có suy yếu, nhưng vẫn còn lực lượng để chống cách mạng. Ngược lại, nếu Tổng khởi nghĩa muộn hơn, khi quân Anh, theo gót quân Anh là Pháp và quân Tưởng, tiếp đến là đế quốc Mỹ đã nhảy vào nước ta, lúc cách mạng chưa giành được chính quyền; chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim sẽ tiếp xúc với bọn đế quốc, phục vụ cho chúng. Lúc đó, thời cơ giành chính quyền không còn nữa, cách mạng sẽ rất khó khăn.
Lịch sử đã chứng minh rằng, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, không thể lấy thời điểm nào khác ngoài thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã chọn. Vận dụng yếu tố thời cơ giành thắng lợi cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt đến độ thiên tài.
Những bài học lịch sử về Cách mạng Tháng Tám còn rất nhiều nhưng bài học về nắm bắt thời cơ cho đến nay vẫn là bài học nóng hổi, mang tính thời sự trong công cuộc phát triển đất nước hôm nay. Chúng ta đã ra khỏi chiến tranh, ra khỏi sự kiệt quệ kinh tế và đang trở thành một trong những quốc gia phát triển nhanh trên thế giới. Một nước có diện tích và dân số thuộc vào những nước đứng nhóm đầu, tiềm năng rất lớn còn chưa được khai thác đúng mức như nước ta là một thực tế chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận. Một đất nước ổn định về chính trị, quốc phòng - an ninh ngày càng được củng cố... tạo ra nhiều lợi thế đối nội và đối ngoại. Đó là cơ sở xuất hiện những thời cơ để vươn lên dân giàu nước mạnh.
Ngày nay, thế giới đang diễn ra mạnh mẽ cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra những kỹ thuật mũi nhọn đưa năng suất lao động lên rất cao. Xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng mạnh. Đồng thời, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển cũng diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Đó là những thời cơ mới tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở nước ta, đường lối, chính sách hơn 20 năm đổi mới của Đảng và Nhà nước đã mang lại những thành tựu to lớn, tạo điều kiện cho đất nước tiến lên theo xu thế phát triển chung của thời đại. Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vững bước đi lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta, cơ hội và thách thức luôn đan xen, lồng ghép vào nhau, trong cơ hội bao hàm cả thách thức và trong thách thức cũng bao hàm cả cơ hội. Cơ hội càng lớn, thách thức càng nhiều, càng đòi hỏi sự sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng và bản lĩnh chính trị, quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta, cùng sự nỗ lực của toàn dân, để hạn chế những khó khăn, thách thức, biến thách thức thành cơ hội.
Tuy đất nước đã đạt được nhiều thành tựu mới trong quá trình chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới những năm vừa qua, nhưng cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch đang ngày đêm ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta.
Vì vậy, đòi hỏi cao nhất đối với Đảng, Nhà nước ta, đối với cả hệ thống chính trị là tích cực nghiên cứu, vận dụng tốt những bài học lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ trong tình hình mới, chúng ta phải luôn quán triệt sâu sắc phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và vận dụng thành công trong thời kỳ giành và giữ chính quyền năm 1945-1946.
Vận dụng “bất biến” tức là không vì quyền lợi hay lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, cá nhân nào đó mà bất chấp nguyên tắc, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, của tập thể. Phải tuyệt đối đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lên trên hết. Thực hiện phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế cũng phải luôn “ứng vạn biến”, biết phân tích, dự đoán và mau lẹ chớp lấy thời cơ, nắm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta.
Bài học lịch sử về ngọn cờ tập hợp quần chúng
Trong Cách mạng Tháng Tám khí thế quần chúng dâng cao ngùn ngụt, muôn người như một từ trẻ đến già, bất kể thành phần đều nhất tề đứng lên làm cách mạng, tại sao lại làm được điều này trong khi lực lượng đảng viên thời bấy giờ còn hết sức ít ỏi và phân tán khắp nước? Tại vì Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giương cao ngọn cờ chính nghĩa đó là “Độc lập cho dân tộc, dân chủ - tự do, ấm no và hạnh phúc”. Ngọn cờ này không chỉ huy động được lực lượng làm cách mạng mà ngay sau khi giành chính quyền trước những khó khăn bộn bề quần chúng nhân dân từ mọi giai tầng đã luôn ủng hộ chính quyền cách mạng trong diệt giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt... Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, ngọn cờ tập hợp quần chúng vẫn luôn cần thiết, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Khó trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” điều này cho thấy muốn tập hợp được quần chúng nhân dân đòi hỏi từ chủ trương, chính sách phải nhằm phục vụ quyền lợi quốc gia, dân tộc, trong thời kỳ khó khăn về mọi mặt của thập kỷ 80 thế kỷ trước, có lúc tưởng chừng không vượt qua được nhưng khi Đảng chủ trương “Đổi mới để phát triển” thì toàn dân nhất tề ủng hộ, bởi vì đây là chủ trương sáng suốt và đúng đắn, chính là ngọn cờ tập hợp sức mạnh của quần chúng. Cách mạng Tháng Tám đã đem lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho các thế hệ mai sau, điều quan trọng là việc nhìn nhận và ứng dụng nó như thế nào để có thể ích nước lợi dân nhất mà thôi.